Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image
Image

Thương Ương Gia Thố - Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 6

Những ai từng đi Tây Tạng, từng đến Lhasa, từng leo cung Potala chắc chắn sẽ ấn tượng sâu đậm khi chiêm ngưỡng những bảo vật quý hiếm bậc nhất thế gian, như: Thất Bảo (San hô, Lục tùng, Ngọc Trai, Thiên châu – đá dzi…), các bộ tượng pháp sưu tầm khắp nơi, tranh Thangka, bích họa, Đàn thành bằng vàng… nhưng có lẽ báu vật thực sự phải là điện Quán âm (kiến trúc lâu đời nhất tại Potala), Linh tháp xá lợi của các đời Đạt Lai Lạt Ma từ ngài thứ 5 đến ngài thứ 13, gian thờ Tạng vương Tùng Tán Can Bố… và những phần quan trọng nhất trong đó. Thời gian có thể phủ bụi mờ lên vạn vật nhưng Linh tháp xá lợi của các ngài vẫn luôn hiện diện đầy uy nghi, trầm mặc.

Trong các đời hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma, chắc hẳn, cái tên Thương Ương Gia Thố sẽ gây tò mò tới tất thảy du khách. Và, linh tháp xá lợi của ngài không có trong số Tháp xá lợi của lịch đại hóa thân. Ngài là nhân vật chính trong câu chuyện lưu danh thiên cổ nhưng những chi tiết cuộc đời ngài vẫn luôn là bí ẩn gợi bao câu hỏi tò mò của hậu thế.

Thương Ương Gia Thố (hay Tsangyang Gyatso) sinh năm 1683, trong một gia đình có truyền thống theo phái Ninh Mã thuộc tộc Môn Ba, tại vùng Đạt Vượng Nạp La Sơn ở Môn Ngẫu. Nay là vùng đang tranh chấp giữa Ấn ĐộTrung Quốc, giáp Bhutan. Tên ngài là Kemido Jitsia Kunqin (Kế Mỹ Đa Cát Hiệp Gia Cổn Khâm), thân phụ ngài là Tashi Danzeng là một tu sỹ phái Ninh Mã, mẹ ngài là Tsi Wang Lhamu. Năm 1685 được sứ giả của Dipa (Nhiếp chính vương – Sangye Gyatso) sơ bộ xác nhận Linh Đồng (đứa trẻ linh thiêng), Năm 1688, ngài được xác tín là chuyển thân của ngài Ngawang Lobsang Gyatso – La Bốc Tạng Gia Thố (Đạt Lai Lạt Ma V) và được đưa đến chùa Hạ Lỗ thuộc phái Ninh Mã nuôi dạy, một năm sau thì mẹ Ngài mất). Năm 1697, ngài được đưa về Potala, Lhasa, thế phát (cạo tóc), thụ giới Sa Di (như ở Phật giáo miền Bắc Việt Nam gọi là Sư Bác, bắt đầu nhận 10 giới Sa Di nên gọi là Sa Di), nhận Ban Thiền Lạt Ma đời thứ 5 làm thầy. Năm 1705, Lhasa xảy ra biến cố chính trị, 1 năm sau đó, ngài được đưa về Bắc Kinh nhưng trên đường đi qua một khu của người Mông Cổ ở Thanh Hải thì viên tịch tại đó.

Cuộc đời ngài Thương Ương Gia Thố đúng là một chuỗi bi kịch trong nhân gian. Thuở nhỏ, bố mất sớm. Năm 3 tuổi có hai vị Lạt Ma phái Cách Lỗ đến nghỉ nhờ (thực chất là tiếp cận), lấy ra một số tín vật của ngài La Bốc Tạng Gia Thố (Đạt Lai Lạt Ma đời thứ V) cho cậu bé xem, không ngờ đứa trẻ nhận biết rõ từng vật, nhìn thấy đồ như cố nhân thấy cố vật. Trong những lúc vui đùa với hàng xóm, cậu bé thường nói rằng, nhà ta ở Lhasa. Ta phải về cung Potala.

Dù việc tiếp xúc không được công khai, bởi những lý do an toàn, nhưng đối với người trong nhà thì thật là rất khó khăn. Bởi vậy, ông chú của cậu bé vốn là người phái Ninh Mã, có chút hiềm khích với bố của cậu, thường qua lại buôn bán ở Bhutan. Ông đã tìm mọi cách móc nối với các thế lực Bhutan, tìm cách ép buộc cậu bé qua ở Bhutan nhằm sau này gây được áp lực với nhà nước Potala, nhưng mọi gian kế của ông ta đều bị Nhiếp Chính Vương Sangye Gyatso ngăn chặn kịp thời.

Trong giai đoạn ở chùa Hạ Lỗ, Thương Ương Gia Thố cũng gặp vô vàn những điều bất hạnh, học hành nghiêm mật nhưng lại phải chịu nhiều áp bức, ăn uống thiếu thốn vô cùng (do chính các sư trong chùa cũng như nhiều thế lực nhòm ngó). Để ngài được bình an, Nhiếp Chính Vương còn phủ nhận, và xem ngài chỉ là nhân vật do phái Ninh Mã cố tình tạo ra hòng đưa người vào Chính quyền Lhasa.

Năm 1683, ngài Đạt Lai Lạt Ma viên tịch, mọi công việc điều hành nhà nước đều do một tay Nhiếp Chính Vương Sangye Gyatso (vốn là một đệ tử thân tín của ngài La Bốc Tạng Gia Thố V). Để trong nước sóng yên biển lặng, triều đình vẫn tiếp tục kiện toàn từ bộ máy hành chính đến việc xây dựng cung Potala, khi việc xây dựng hoàn thành Nhiếp Chính Vương quyết giữ bí mật việc Ngài Đạt Lai Lạt Ma viên tịch (có hai quan điểm: một cho rằng đây là di nguyện của ngài Đạt Lai Lạt Ma; quan điểm thứ hai cho rằng đây là sự tiếm quyền của Sangye Gyatso). Đương thời, ở Lhasa có hai thế lực: một là triều đình của ngài Đạt Lai Lạt Ma; hai là lực lượng quân sự Khoshut Khanate (Mông Cổ) do Lhasang ghan (La Tạng Hãn) – Liên minh của Triều Mãn Thanh tại Tây Tạng. Mỗi khi có sứ thần lên Potala diện kiến, đều phải có người đóng thế ngài La Bốc Tạng Gia Thố. Nhiều lần phải tuyên bố Ngài Đạt Lai Lạt Ma bế quan thiền định để từ chối đón tiếp khách.

Nhưng vào năm 1697, vua Khang Hy trong một lần dẫn quân dẹp phiến loạn tại Mông Cổ, phong thanh nghe được tin ngài Đạt Lai Lạt Ma đã viên tịch, tập tức phát nộ trách phạt Nhiếp Chính Vương Tây Tạng. Khi biết đã không thể che giấu được nữa, Nhiếp Chính Vương liền dâng tấu nhận tội và trình bày sự việc cũng như báo về việc đã tìm thấy chuyển thân đời thứ sáu của ngài Đạt Lai Lạt Ma, vua Khang Hy liền ban chiếu chính thức công nhận Thương Ương Gia Thố là chuyển thân của ngài Đạt Lai Lạt Ma. Việc này cũng khiến Lhasang không dám có ý kiến phản bác. Và chính thức tổ chức đón ngài Thương Ương Gia Thố về cung Potala.

Trên đường đến Lhasa, tùy tùng Thương Ương Gia Thố ngoài quan viên triều đình thì chỉ có một người thân duy nhất từ quê nhà đi theo, đó là một người bạn thanh mai trúc mã.

Sau khi đến Lhasa, Nhiếp Chính Vương thỉnh ngài Ban Thiền từ Shigatse chư tăng tại ba chùa lớn phái Cách Lỗ tại Lhasa là Triết Bạng, Cam Đan, Sera tới làm lễ thế phát và truyền giới Sa Di cho Thương Ương Gia Thố. Ngài chính thức trở thành người đứng đầu Phái Cách Lỗ cũng như đứng đầu nhà nước Tây Tạng bấy giờ. Tuy nhiên, tuổi còn nhỏ, phải bận học Giáo Pháp và các môn bổ trợ như: lịch pháp, hội họa, thi ca, y dược… cũng như phải tìm tới những bậc đại Hoạt Phật để tham phương học đạo. Đến đây, phải nói đến ba hệ tư tưởng Phật pháp mà ngài tiếp thụ đó là: Ka Yuk (Khẩu truyền), Cách Lỗ và Ninh Mã. Mọi thực quyền vẫn nằm trong tay Nhiếp Chính Vương.

Bấy giờ, mâu thuẫn giữa Nhiếp Chính Vương và Lhasang ghan được đẩy lên rất cao. Trong bầu không khí chính trị căng thẳng tột độ đó, nhiều lần Thương Ương Gia Thố có ý kiến nhưng vì nghĩ ngài còn nhỏ nên Nhiếp Chính Vương không nghe. Lâu dần quan hệ giữa ngài Thương Ương Gia Thố và Nhiếp Chính Vương không được tốt. Một bên là trí tuệ, minh triết, tài hoa nhưng còn nhỏ, một bên là thủ cựu, nghiêm khắc. Dần dần, chán nản, Thương Ương Gia Thố không còn nhất tâm học Phật, thả lòng mình vào những áng thơ, phiêu lãng như mây trắng đến rồi đi trên đỉnh Hồng Cung. Ngài đã từng về Shigatse gặp Ban Thiền Lạt Ma xin sám hối, thậm chí xin xả giới Sa Di.

Sau này, giải thích cho hiện tượng trên, các vị Lhama nói, hẳn đây là một thoáng qua của phiền não vô minh nhất thời che mờ bản tâm. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, ngài đã dùng pháp thế gian để xiển dương pháp Xuất thế gian. Quan điểm đời thường thì lý giải rằng: sở dĩ dẫn đến trạng huống như vậy vì khi ngài được đưa về thì đã 15 tuổi, lửa hồng đã có bén duyên. Hơn nữa, truyền thống gia đình vốn theo phái Ninh Mã. Tu sĩ phái Ninh Mã được lập gia đình, sinh con. Nhưng phái Cách Lỗ thì nghiêm trì giới luật, theo tinh thần chấn hưng Phật giáo của tổ sư khai môn Tông Khách Ba. Bản thân hai từ Cách Lỗ tiếng Tạng có nghĩa rằng: Thiện luật hoặc nghiêm quy (khéo giữ giới luật, quy định nghiêm ngặt)

Đỉnh điểm mâu thuẫn chính trị giữa hai thế lực xảy ra khi Nhiếp Chính Vương Sangye Gyatso, thông đồng với người hầu của Lhasang ghan bỏ thuốc độc vào thức ăn, nhưng Lhasang phát hiện, lập tức đưa quân vào đánh thẳng lên Potala, giết Nhiếp Chính Vương.

Đồng thời, ngày 28 tháng 6 năm 1706, ông gửi tấu về triều đình Mãn Thanh nói rằng ngài Thương Ương Gia Thố là giả, chỉ đam mê tửu sắc, ham chơi săn bắn, thường mặc dân phục lang thang trên phố Lhasa. Nhận được sớ tấu, vua Khang Hy sai sứ giả lên Lhasa điều tra sự vụ, nhưng dưới áp lực của Lhasang ghan, sứ giả không biết xoay sở ra sao đành mượn cớ đưa Thương Ương Gia Thố về triều đình.

Ngày rời Lhasa, toàn dân Lhasa kéo ra bên đường khóc than tiễn biệt. Khi đoàn đi qua chùa Triết Bạng, Tăng lữ của hai chùa Triết Bạng và Cam Đan kéo ra, cướp ngài về chùa Cam Đan. Nghe tin, Lhasang Hãn lập tức kéo quân lên vây hãm ép phải đưa ngài ra. Trước tình thế nguy cấp, không muốn sinh linh lại vì mình mà tạo ra kiếp nạn lầm than, ngài tự mình ra chịu bị bắt. Lhasang Hãn điều quân trực tiếp áp giải ngài về Bắc Kinh. Trên đường đi đến Tây Ninh, đi qua vùng đất của người Mông Cổ, không hiểu duyên cớ gì, phái đoàn cắm trại tại đây nghỉ 10 ngày. Và trong 10 ngày đó, tin báo về triều đình, ngài đổ bệnh viên tịch.

Ngài là một tác giả, thi gia nổi tiếng nhất trong lịch sử Tây Tạng. Khi đến Lhasa, tìm đến quán rượu Makye Ame nằm ở vị trí góc 13h chùa Jokhang, nghe diễn thuyết về thân thế và sự nghiệp của ngài, có một chi tiết rất thú vị rằng: Sau khi hay tin ngài viên tịch, các cô gái ở Lhasa thời bấy giờ, tìm mọi cách sơn tường phòng ngủ của mình màu vàng, treo rèm cửa màu vàng với hy vọng: Một ngày nào đó khi bình minh vừa tới, Ngài sẽ xuất hiện, ngồi tâm sự, uống rượu, làm thơ tặng mình. Hiện nay, còn rất nhiều thiếu nữ Tạng ở khắp nơi vẫn đến kora Jokhang cũng như mặc những bộ quần áo đẹp, chụp ảnh lưu niệm trước quán rượu này.

Sau khi ngài vắng bóng, Lhasang lập người khác lên thay nhưng chưa bao giờ nhận được sự đồng thuận của người Tạng và người Mông Cổ. Về sự vắng bóng của ngài có nhiều sách, truyện viết khác nhau, nhưng tựu chung có những quan điểm như sau: Đêm đó, ngài nói với quan sứ giả rằng, thôi, để cho sóng yên biển lặng, tùy thuận nhân duyên, ta sẽ kết thúc tại đây, không làm Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 6 nữa. Như vậy, ngươi chỉ việc tâu với triều đình là ta bạo bệnh mà ra đi. Sau đó ngài qua Mông Cổ, Ấn Độ hoằng dương Phật Pháp, sau đó, đến Nội Mông, nhận đệ tử, thọ 64 tuổi. Ngài được đệ tử dựng chùa lập am thờ tên là Quảng Tông tự, sau cách mạng văn hóa, chùa bị phá, xá lợi ngài bị đốt.

Ngài không về triều đình mà được bố trí đưa thẳng lên lên Ngũ Đài Sơn. Trong truyện Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 13 có nhắc đến, ngài đã từng đến Ngũ Đài Sơn và đỉnh lễ dấu ấn của ngài đời thứ 6. Ngài bị thế lực Mông Cổ ở Tây Ninh giết.

Trước tác lưu lại hậu thế của Ngài, đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi, chính thức được xác minh chỉ có 66 bài thơ. Trong lịch sử Văn học Tạng, ngài đã trở thành hiện tượng mà không phải là một người cá thể. Có nhiều sáng tác mang đề tài khai phóng tôn giáo, hòa nhập nhân sinh cũng được gắn mác tên ngài.

Kiến trúc còn lưu lại xây dựng vào thời của Ngài là khu chính điện trong Potala cung, khi bắt đầu đi vào khu Hồng cung, chúng ta sẽ đi qua đỉnh lễ Phật Di Lặc, rồi tiếp đến qua điện Vô Lượng Thọ cầu nguyện cho vua Khang Hy, qua khỏi khu điện này sẽ đến chính điện được xây dựng thời ngài Thương Ương Gia Thố ở Potala.

Rất tiếc, theo quy định trong khu Bạch Cung và Hồng Cung tuyệt đối không được chụp ảnh ghi hình nên chúng tôi không có tư liệu giới thiệu cùng quý vị.

Bài viết khác

Quần thể đền thờ hang động Dambulla là một trong những kỳ quan ấn tượng nhất ở Sri Lanka – một ngôi đền Phật giáo được xây dựng hoàn toàn vào hang núi đá đã tồn tại từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên.

Người Miêu ở Trung Quốc bao gồm năm tộc người khác nhau là: Người Hmong, Hmub, Xong và A-Hmao và được chia thành hai nhóm là: người Miêu Thuần và Dã Miêu.

Trang phục truyền thống (quốc phục) là một trong những nét đặc biệt và nổi bật của đất nước Bhutan. Vào thế kỷ thứ 17, Zhabdrung Ngawang Namgyal (một vị Lạt Ma Tây Tạng, người thống nhất Bhutan với tư cách là một quốc gia độc lập) với tầm nhìn xa về việc duy trì sự thống nhất và chủ quyền của đất nước đã tạo nên quốc phục cho Bhutan.

Lễ hội Shoton, hay Lễ hội sữa chua là một trong những lễ hội truyền thống lớn nhất ở Tây Tạng. “Sho” trong tiếng Tạng mang nghĩa “sữa chua”, “Ton” trong tiếng Tạng mang nghĩa “ăn uống, tiệc tùng”.

Trong các đời hóa thân của Đạt Lai Lạt Ma, chắc hẳn, cái tên Thương Ương Gia Thố sẽ gây tò mò tới tất thảy du khách.

Tới Tây Tạng du lịch mà không đi Potala cung thì quả là một sự tiếc nuối lớn. Nằm ở trung tâm thủ phủ Lhasa, đây được coi là biểu tượng của Lhasa nói riêng và mảnh đất huyền bí Tây Tạng nói chung.